Hầu hết bệnh da ác tính cơ quan sinh dục là ung thư tế bào vãy và có liên quan với human papillomavirus (HPV). Tần suất toàn bộ của của HPV DNA ở ung thư dương vật là 40-50%. Ít gặp hơn ung thư xuất hiện adnexia da, tế bào sắc tố, hay mô mềm, hạch bạch huyết. Di căn da dương vật là hiếm và thường kết hợp với bệnh lý ác tính khác.
Ung thư dương vật từ tế bào vảy bao gồm ung thư insitu và ung thư xâm lấn. Trong ung thư insitu của tế bào vảy của dương vật, được biết là PIN, bao gồm 3 thể lâm sàng khác nhau, bệnh hồng sản Queyrat, bệnh Bowen, và bệnh bóng nước bowen. Sự khác nhau của 3 bệnh này là vị trí giải phẫu học, hình dáng tổn thương. Hồng sản Queyrat và Bowen có chung hình ảnh mô học và đặc tính sinh học, đều có liên quan những týp phụ HPV, hai bệnh này xem như 2 biến thể lâm sàng khác nhau của 1 bệnh.
Carcinoma insitu và bóng nước bowenoid là giống nhau, cũng có liên hệ với HPV, tuy nhiên khác hai dạng đầu là ít co khuynh hướng ác tính.
Ung thư tế bào vảy xâm lấn dương vật là bướu không thường gặp. Thường gặp ở người lớn tuổi chưa cắt da qui đầu. Thường có tỷ lệ tử vong cao, cũng như chấn thương tâm lý. Nguyên nhân của ung thư tế bài vảy xâm lấn ít được bết so với in situ. Mặc dù ung thư tế bào vảy xâm lấn kèm HPV, nhưng tác nhân khác cũng có thể đóng vai trò bệnh sinh của bướu. Biểu hiện lâm sàng của ung thư tế bào vảy xâm lấn là rất khác nhau, ung thư biệt hoá tốt, lồi ra bên ngoài, dạng mụn cóc hay dạng phẳng. Tiên lượng phụ thuộc vào bướu xâm lấn và có hạch vùng không.
Ung thư ác tính không tế bào vảy dương vật bao gồm sarcoma mô mềm, melanoma, và lymphoma.
Hồng sản (Erythroplasia of Queyrat)
Carcinoma insitu và bóng nước bowenoid là giống nhau, cũng có liên hệ với HPV, tuy nhiên khác hai dạng đầu là ít co khuynh hướng ác tính.
Ung thư tế bào vảy xâm lấn dương vật là bướu không thường gặp. Thường gặp ở người lớn tuổi chưa cắt da qui đầu. Thường có tỷ lệ tử vong cao, cũng như chấn thương tâm lý. Nguyên nhân của ung thư tế bài vảy xâm lấn ít được bết so với in situ. Mặc dù ung thư tế bào vảy xâm lấn kèm HPV, nhưng tác nhân khác cũng có thể đóng vai trò bệnh sinh của bướu. Biểu hiện lâm sàng của ung thư tế bào vảy xâm lấn là rất khác nhau, ung thư biệt hoá tốt, lồi ra bên ngoài, dạng mụn cóc hay dạng phẳng. Tiên lượng phụ thuộc vào bướu xâm lấn và có hạch vùng không.
Ung thư ác tính không tế bào vảy dương vật bao gồm sarcoma mô mềm, melanoma, và lymphoma.
Hồng sản (Erythroplasia of Queyrat)
Được Tarnowsky mô tả đầu tiên năm 1891, hồng sản Queyrat được chia ra khỏi bệnh Bowen dựa trên hình ảnh lâm sàng và vị trí giải phẫu ( lớp trong của da qui đầu và qui đầu dương vật), thiếu một sự liên kết với độ ác tính bên trong (internal malignancy). Giải phẫu bệnh tương tự nhau giữa bệnh hồng sản Queyrat và bệnh Bowen, vì thế mà 2 bệnh này được xem như 2 thể lâm sàng khác nhau của một bệnh, dạng carcinoma in situ của dương vật. Thường độ ác tính liên quan tới tuổi già của bệnh nhân.
Sinh lý bệnh học
Thường phát triễn ở người đàn ông không cắt da qui đầu. Tôn thương trong lớp biểu mô hay tăng sản in situ. Nguy cơ tiến triễn qua dạng ung thư xâm lấn (invasive carcinoma) là 10%. Yếu tố nguyên nhân đặc hệu chưa rõ. Yếu tố thuận lợi là không cắt da qui đầu, vệ sinh kém, và viêm mãn tính. Vài týp huyết thanh của HPV được cô lập trong bệnhnày là HPV 8, 16,18, 39,51. Cắt da qui đầu được xem như là bảo vệ lại sự phát triễn của bệnh này, để vệ sinh tốt hơn, không ứ đọng chất smegma, và giảm nguy cơ nhiễm trùng mạn tính.
Biểu hiện lâm sàng và chẩn đoán
Hồng sản Queyrat biểu hiện lâm sàng rất khác nhau: mảng đỏ sáng, mềm, trơn nhẵn, vảy da, vả tiết. Vị trí qui đầu, rãnh qui đầu, hoặc da qui đầu. tổn thương thường kéo dài hàng tháng hoặc hàng năm trước khi đi khám bệnh. Sinh thiết thường được thực hiện để chẩn đoán quyết định. Loét có thể là tổn thương của dạng xâm lấn. Hình ảnh mô học thường giống với bệnh Bowen hay bowenoid papulosis là những loại carcinoma in situ như là dầy lớp biểu mô không điển hình thiếu sự trưởng thành,với nhân không điển hình, dyskeratosis, pân bào không điển hình. Bệnh da nền là thâm nhập tế bào viêm lymphocytic. Không có hình ảnh ung thư xâm lấn xuống lớp bì.
Hồng sản Queyrat |
Chẩn đoán phân biệt
Là viêm qui đầu dạng Zoon, loét lichen phẳng (erosive lichen planus ), vảy nến, lichen phẳng (planus). Bệnh Bowen sắc tố (pigmented Bowen disease) cũng giống như dầy sừng da đầu (seborrheic keratosis), melanoma, hoặc nốt ruồi ( melanocytic nevi ).
Điều trị
Điều trị là loại bỏ tổn thương; tuy nhiên, không có điều trị nào là điều trị chuẩn. Phương pháp điều trị là tại chỗ, làm lạnh (cryotherapy), đốt bỏ bằng laser, xạ trị, đốt nhiệt, phẫu thuật cắt bỏ ( bao gồm cắt một phần dương vật. Hai loạidt cuối cùng giúp chúng at vừa điều trị vừa chẩn đoán, đánh giá giải phẫu bệnh, bờ thương tổn để loại trừ bướu xâm lấn. Vi phẫu Mohs giúp bảo tồn dương vật. Gần đây điều trị photodynamic với Mohs cũng được sử dụng.[1, 2] Bôi tại chỗ là 5-fluorouracil (5-FU) hoặc imiquimod có tỷ lệ thành công trong những nghiên cứu có giới hạn.
Kết quả
Khoảng 10% tổn thương diễn tiến sang dạng xâm lấn Trong lô nghiên cứu 100 trường hợp, 22% bệnh nhân có tái phát, 8% dạng xâm lấn, và 2% ung thư tế bào vảy di căn xa.
Bệnh Bowen
Được John T. Bowen mô tả lần đầu tiên vào năm 1912, là bệnh ung thư tế bào vảy tại chỗ (squamous cell carcinoma in situ) với ác tính cơ quan bên trong (internal viseral malignancy). Sau đó thì, tiến triễn sang dạng ung thư carcinoma xâm lấn giống như hồng sản Queyrat.
Dịch tễ học
Lâm sàng
Tổn thương là dát hoặc mảng đỏ, bờ rõ; sau đó, tổn thương có thể dày sừng, vảy tiết, nứt, loét, một số biểu hiện tăng sắc tố nhất là ở vùng sinh dục và móng. Kích thước tổn thương khác nhau: đường kính từ vài millimet đến vài centimet. Số lượng: hai phần ba trường hợp có một tổn thương. Vị trí tổn thương: thường gặp nhất ở đầu và cổ, sau đó là các chi, ở dương vật gọi là hồng sản của Queyrat (erythroplasia of Queyrat).
Triệu chứng cơ năng: thường không có.
Dịch tễ học
- Tần số: Năm 1991, nghiên cứu của Minnesota thấy tỷ lệ trung bình hàng năm ở người da trắng là 14/100.000 người. Năm 1994, một nghiên cứu Hawaii thấy tỷ lệ này gấp 10 lần: 142/100.000.
- Chủng tộc: bệnh gặp chủ yếu ở người da trắng.
- Giới: tỷ lệ nam nữ ngang nhau.
- Tuổi: bệnh thường gặp ở người cao tuổi.
- Nguyên nhân: Tiếp xúc thường xuyên với tia UV, Arsen, Human papilloma virus: HPV 16, HPV 2. Nguyên nhân khác: gen, tổn thương, các hóa chất gây ung thư khác, tia X.
Lâm sàng
Tổn thương là dát hoặc mảng đỏ, bờ rõ; sau đó, tổn thương có thể dày sừng, vảy tiết, nứt, loét, một số biểu hiện tăng sắc tố nhất là ở vùng sinh dục và móng. Kích thước tổn thương khác nhau: đường kính từ vài millimet đến vài centimet. Số lượng: hai phần ba trường hợp có một tổn thương. Vị trí tổn thương: thường gặp nhất ở đầu và cổ, sau đó là các chi, ở dương vật gọi là hồng sản của Queyrat (erythroplasia of Queyrat).
Triệu chứng cơ năng: thường không có.
Cận lâm sàng Mô bệnh học
Điều trị
Điều trị
- Thuốc bôi: 5-fluorouracil...Kem Imiquimod 5%: bôi 3-7ngày/tuần. Tia X cho những người không có điều kiện phẫu thuật hoặc bệnh nhân nhiều tổn thương. Photodynamic therapy (PDT):
- Phẫu thuật: Phẫu thuật quy ước: cắt cả vùng vùng chu vi cách bờ tổn thương ít nhất 4mm. Đây là phương pháp thường dùng và để điều trị những tổn thương có kích thước nhỏ. Không dùng cho những tổn thương ở mặt, chi. Phẫu thuật Moh: đây là biện pháp tốt nhất để điều trị những tổn thương lớn, tái phát hoặc ở những vùng cần đảm bảo chức năng sống. Curet, đốt điện, áp ni-tơ lỏng, laser CO2.
Bệnh Bowenoid Papulosis
Vào năm 1970, Lloyd lần tiên mô tả bệnh Bowenoi papulosis.[3] Wade cũng áp dụng từ ngữ bowenoid papulosis vào năm 1978, là một bệnh lý thấy ở người trẻ, đang hoạt động tình dục.[4] Mặc dù tổn thương cho thấy hình ảnh giải phẫu bệnh học giống với hồng sản Queyrat và bệnh Bowen, tuy nhiên nó ít có khuynh hướng tiến triễn qua ung thư xâm lấn hơn.
Sinh lý bệnh học
Bowenoid papulosis thường xuất hiện năm 20-40 tuổi. Tuổi trung bình là 29,5 tuổi. Thường kết hợp với nhiễm HPV, những týp siêu vi trùng HPV hay thường gặp là HPV1, 6, 11, 16, 18, 31-35, 39, 42, 48, 51-54, và 67. HPV 16 là thường gặp nhất. Mặc dù bowenoid papulosis có thể diễn tiến ung thư tế bào vãy, tỷ lệ 2,6% thường ít hơn hồng sản Queyrat và và bệnh Bowen.
Lâm sàng và chẩn đoán
Bệnh nhân có bóng nước độc nhất hay nhiều, lớn nhanh, đỏ nâu hay tím phẳng. kết hợp với nhau thành từng mảng lớn hơn trên thân dương vật hay trên tầng sinh môn. Những bóng nước này không ngứa, kích thước từ 2-10 mm. Sinh thiết thường cần thiết để chẩn đoán xác định. Tế bào học tương tự như hồng sản Queyrat và bệnh Bowen, có hình ảnh của carcinoma in situ, dầy biểu mô không điển hình không thấy hình ảnh lớn (maturation), nhân không điển hình, sừng hóa, và phân bào không điển hình. Lớp bì phía dưới tẩm nhuận tế bào viêm. Vì có sự chồng lấn của 3 bệnh này nên dựa vào lâm sàng là chủ yếu.
Chẩn đoán phân biệt
Phân biệt với sùi mào gà (condyloma acuminatum), sừng da tiết bả (seborrheic keratoses), hay nốt ruồi.
Cũng nên bao gồm viêm qui đâu không điển hình Zoon.
Điều trị
Bởi vì đặc điểm lành tính của bệnh, điều trị bảo tồn là thích hợp. Cắt bỏ những tổn thương hay tổn thương lớn nhất. Những phương thức điều trị khác bao gồm, nhiệt lạnh, laser, bôi tại chỗ với hoặc là 5-FU hoặc imiquimod. hết bệnh tự nhiên có thể xảy ra khi bệnh nhân có đang điều trị với kháng virus (HAART).
Kết quả
Nguy cơ chuyển thành ung thư tế bào vãy là 2.6%, ít hơn đánh kể so với bệnh Bowen và hồng sản Queyrat. Những bệnh nhân có suy giảm miễn dịch có nguy cơ lớn hơn tiến triễn thành bướu xâm lấn. trong vài trường hợp, bệnh này có thể tự hết. Bởi vì kết hợp với nhiễm HPV, vì vậy bệnh này là bệnh lây truyền qua đường tình dục. Nghiên cứu cho thấy, bạn tình của bệnh nhân bowenoid papulosis có nguy cơ ung thư cổ tử cung cao.
Sinh lý bệnh học
Bowenoid papulosis thường xuất hiện năm 20-40 tuổi. Tuổi trung bình là 29,5 tuổi. Thường kết hợp với nhiễm HPV, những týp siêu vi trùng HPV hay thường gặp là HPV1, 6, 11, 16, 18, 31-35, 39, 42, 48, 51-54, và 67. HPV 16 là thường gặp nhất. Mặc dù bowenoid papulosis có thể diễn tiến ung thư tế bào vãy, tỷ lệ 2,6% thường ít hơn hồng sản Queyrat và và bệnh Bowen.
Lâm sàng và chẩn đoán
Bệnh nhân có bóng nước độc nhất hay nhiều, lớn nhanh, đỏ nâu hay tím phẳng. kết hợp với nhau thành từng mảng lớn hơn trên thân dương vật hay trên tầng sinh môn. Những bóng nước này không ngứa, kích thước từ 2-10 mm. Sinh thiết thường cần thiết để chẩn đoán xác định. Tế bào học tương tự như hồng sản Queyrat và bệnh Bowen, có hình ảnh của carcinoma in situ, dầy biểu mô không điển hình không thấy hình ảnh lớn (maturation), nhân không điển hình, sừng hóa, và phân bào không điển hình. Lớp bì phía dưới tẩm nhuận tế bào viêm. Vì có sự chồng lấn của 3 bệnh này nên dựa vào lâm sàng là chủ yếu.
Chẩn đoán phân biệt
Phân biệt với sùi mào gà (condyloma acuminatum), sừng da tiết bả (seborrheic keratoses), hay nốt ruồi.
Cũng nên bao gồm viêm qui đâu không điển hình Zoon.
Điều trị
Bởi vì đặc điểm lành tính của bệnh, điều trị bảo tồn là thích hợp. Cắt bỏ những tổn thương hay tổn thương lớn nhất. Những phương thức điều trị khác bao gồm, nhiệt lạnh, laser, bôi tại chỗ với hoặc là 5-FU hoặc imiquimod. hết bệnh tự nhiên có thể xảy ra khi bệnh nhân có đang điều trị với kháng virus (HAART).
Kết quả
Nguy cơ chuyển thành ung thư tế bào vãy là 2.6%, ít hơn đánh kể so với bệnh Bowen và hồng sản Queyrat. Những bệnh nhân có suy giảm miễn dịch có nguy cơ lớn hơn tiến triễn thành bướu xâm lấn. trong vài trường hợp, bệnh này có thể tự hết. Bởi vì kết hợp với nhiễm HPV, vì vậy bệnh này là bệnh lây truyền qua đường tình dục. Nghiên cứu cho thấy, bạn tình của bệnh nhân bowenoid papulosis có nguy cơ ung thư cổ tử cung cao.
Ung thư tế bào vãy - Squamous Cell Carcinoma
Là loại ung thư thường gặp của dương vật, chiếm 95% ung thư của dương vật. Hiếm gặp ở đàn ông dưới 40 tuổi, tuổi thường gặp từ 20-90. hầu hết các trường hợp xảy ra ở người già chưa cắt da qui đầu với tình trạng vệ sinh quá kém. Ở Hoa kỳ ít hơn 1% trong các loại ung thư. những vùng có ung thư dương vật cao bao gồm Uganda, Brazil, Jamaica, Mexico, India, và Haiti. Ung thư tế bào vãy của bìu cũng thu7òng xảy ra nhưng ít hơn ung thư dương vật.[5]
Sinh lý bệnh
Nguyên nhân của SCC không rõ ràng. Những báo cáo ban đầu cho thấy là SCC thường gặp người chưa cắt da qui đầu. Gặp vớitỷ lệ cao người theo đạo Hindu, và ít gặp hơn ở người Do thái do cắt da qui đầu vì lý do tôn giáo. Tỷ lệ cũng thấp ở các nước Scandinavi cũng không có cắt da qui đầu, vì vậy yếu tố da qui đầu là chủ yếu, vệ sinh kém và da qui đầu.
SCC của dương vật do hẹp da qui đầu, hẹp da qui đầu dẫn đến vệ sinh kém và viêm. Nhiễm HPV chiếm 15-71% SCC. Phân nhóm của SCC là 16, và 18 cũng như 6, 11 và 30. Ung thư dương vật cũng thường kết hợp với ung thư cổ tử cung, mặc dù thống kê cũng có gây tranh cãi. Yếu tố thuận lợi của ung thư dương vật là ứ đọng chất smegma, viêm qui đầu mãn tính, tiếp xúc với tia cực tím, tiếp xúc chất sinh ung thư hoá chất, hút thuốc lá, nhễm HIV và suy giảm miễn dịch.
Biểu hiện lâm sàng và chẩn đoánHầu hết tổn thương thường ở da qui đầu, theo sau da qui đầu, là rãnh qui đầu và thân dương vật. Bướu thường thể hiện là một khối lớn loét, phẳng hoặc nhô ra, lầm sàng là nhú gai. Biểu hiện triệu chứng thường đau dương vật, co cứng kéo dài ác tính, chất tiết, và tiểu khó. Hạch to thường gặp 28-64% các trường hợp có biểu hện lâm sàng. Sinh thiết là cần thiết cho chẩn đoán xác định. Mô học cho thấy hình ảnh ung thư xâm lấn hình ảnh đại thể đa dạng (morphologic heterogeneity). Hầu hết ung thư là biệt hoá tốt, những dạng khác bao gồm basaloid, sarcomoid, hay thành phần giống như mụn cóc. Lớp da phía dưới là hình ảnh thấm nhuận tế bào viêm. Xâm nhập mạch máu bạch huyết có thể có.
Phân độ giai đoạn và độc ác tính dựa trên AJCC, TNM và hệ thống Broders có cải biên tương ứng. TNM phân độ giai đoạn I-IV dựa trên sự xâm lấn của bướu. Hầu hết bệnh nhân trong giai đoạn I ( còn trong qui đầu) hoặc II (liên quan với qui đầu và thân dương vật). Độ biệt hoá dựa vào hệ thống Broder có cải biên chia làm 4 độ mô học từ biệt hoá tốt sang biệt hoá kém. Hệ thống khác sử dụng 3 (tốt , vừa, kém), vớ 50% các trường hợp là biệt hoá tốt. Bướu biệt hoá tốt di căn hạch vùng tốc độ 50%, trung bình hoặc kém 80-100% di căn hạch. Di căn đường máu ít gặp hơn, ít hơn 2% các trường hợp chẩn đoán
Ung thư dương vật, xấm lấn nông rộng |
Ung thư dương vật bướu vùng đỉnh của qui đầu |
Ung thư dương vật, bướu phần da qui đầu |
Ung thư dương vật |
Ung thư dương vật |
Chẩn đoán phân biệt
Dựa trên vị trí và biểu hiện lâm sàng, thì nghĩ đến ung thư tế bào vãy. Chẩn đoán phân biệt bao gồm nhiễm HPV, nhiễm herpes simplex không điển hình, bướu phần phụ da ác tính, sarcoma và meloma không sắc tố.
Điều trị
Điều trị chủ yếu là phẫu thuật cắt bỏ khác nhau từ giai đoạn của bướu và độ ác tính. Xạ trị, hoá trị hay cả hai cũng có thể là điều trị bổ sung. Phẫu thuật bao gồm cắt rộng, cắt dương vật bán phần, hoặc cắt dương vật toàn phần. Vài nhóm tranh cãi về cắt tại chỗ với chuyển sang cắt dương vật bán phần với tỷ lệ tái phát, mặc dù điều ày không được chấp nhận rộng rãi. Hiệu quả của nạo hạch bẹn phòng ngừa còn bàn cãi. Sinh thiết hạch canh gác có thể sử dụng thành công trong theo dõi phẫu thuật của ung thư dương vật và cung cấp thông tin tiên lượng tốt.
Điều trị
Điều trị chủ yếu là phẫu thuật cắt bỏ khác nhau từ giai đoạn của bướu và độ ác tính. Xạ trị, hoá trị hay cả hai cũng có thể là điều trị bổ sung. Phẫu thuật bao gồm cắt rộng, cắt dương vật bán phần, hoặc cắt dương vật toàn phần. Vài nhóm tranh cãi về cắt tại chỗ với chuyển sang cắt dương vật bán phần với tỷ lệ tái phát, mặc dù điều ày không được chấp nhận rộng rãi. Hiệu quả của nạo hạch bẹn phòng ngừa còn bàn cãi. Sinh thiết hạch canh gác có thể sử dụng thành công trong theo dõi phẫu thuật của ung thư dương vật và cung cấp thông tin tiên lượng tốt.
Xạ trị cũng có thể áp dụng cho bệnh nhân không thể phẫu thuật, với những thành công có tính chất hạn chế. Vai trò của hoá trị không rõ ràng. Thường sử dụng những hoá chất như cisplatin và bleomycine thành công trong vài trường hợp với tỷ lệ đáp ứng là 43%.
Kết qủa
SCC của dương vật ó khuynh hướng xâm lấn tại chỗ, bệnh có khuynh hương xâm lấn ( agressive). Tiên ượng liên quan với độ xâ, lấn của bướu và tình trạng hạch. Theo nghiên cứu gần đây, sống còn 5 năm là 93% nến bướu giai đoạn 1, 55% nếu bướu giai đoạn II, và 30% nếu bướu gian đoạn III. Nếu bướu di căn hạch thì tỷ lệ sống còn 5 năm là ít hơn 5%. Nếu không điều trị thì chết trong vòng 2 năm. Di căn hạch, hạch bẹn và hạch chậu, đường di căn thường gặp. Dĩ nhiên, 5-15% phát triễn thú phát sau tổn thương nguyên phát, và thường ở vị trí phần còn lại của dương vật.
Biến chứng thường là do tái phát, khoảng 7%. Thêm vàođộ xâm lấn của bướu và tình trạng hạch, phân độ mô học đóng vai trò quang trọng trong tiên lượng. Tiên lượng xấu khi, kết hợp với sarcomatoid. Ung thư dạng mụn cóc (Buschke-Lowenstein tumor) là dạng biệt hoá tốt, grade thấp, có đặc điểm ít xâm ấn tại chỗ và ít di căn xa.
Ung thư da, hay ung thư tế bào đáy của da (Basal Cell Carcinoma)
Ung thư da, hay ung thư tế bào đáy của da (Basal Cell Carcinoma)
Là ung thư tế bào đáy là dạng ung thư thường gặp nhất của nhân loại, thường cũng ít gặp ở cơ quan sinh dục ngoài. Gặp trong y văn và vài trường hợp trong những thơ thông báo trường hợp lầm sàng. Điều trị thường là kiểm soát tại chỗ. Di căn thường rất hiếm.
Sinh lý bệnh học
Ung thư này thường gặp ở da có tiếp xúc với ánh sáng mặt trời hay tếp xúc với tia cực tím. Vì vậ hiếm gặp ở da bộ phận sinh dục. Thêm vào yếu tố nguy cơ của tiếp xúc ánh sáng mặt trời là, tiếp xúc với tia xạ tri ion hoá, nhiễm arsen, suy giảm miễn dịch, hội chứng di truyền, như là ung thư da nốt ruồi và xeroderma pigmentosum. Bướu hiếm khi di căn xa.
Biểu hiện lâm sàng và chẩn đoán
Tuổi biểu hiện lâm sàng là 22-81 tuổi, hầu hết các trường hợp là 22-81 tuổi, hầu hết là lớn tuổi. Hầu hết bệnh nhân có da sáng, mặc dù vài trường hợp cũng có bệnh nhân da màu. Hầu hết tổn thương ở thân dương vật và da bìu. Tổn thương là bóng nước và nụm nước, với bờ thường trắng và tăng sinh mạch máu (telangiectatic edges). Cũng có thể có loét. Sinh thiết là chẩn đoán.
Chẩn đoán phân biệt
Sinh lý bệnh học
Ung thư này thường gặp ở da có tiếp xúc với ánh sáng mặt trời hay tếp xúc với tia cực tím. Vì vậ hiếm gặp ở da bộ phận sinh dục. Thêm vào yếu tố nguy cơ của tiếp xúc ánh sáng mặt trời là, tiếp xúc với tia xạ tri ion hoá, nhiễm arsen, suy giảm miễn dịch, hội chứng di truyền, như là ung thư da nốt ruồi và xeroderma pigmentosum. Bướu hiếm khi di căn xa.
Biểu hiện lâm sàng và chẩn đoán
Tuổi biểu hiện lâm sàng là 22-81 tuổi, hầu hết các trường hợp là 22-81 tuổi, hầu hết là lớn tuổi. Hầu hết bệnh nhân có da sáng, mặc dù vài trường hợp cũng có bệnh nhân da màu. Hầu hết tổn thương ở thân dương vật và da bìu. Tổn thương là bóng nước và nụm nước, với bờ thường trắng và tăng sinh mạch máu (telangiectatic edges). Cũng có thể có loét. Sinh thiết là chẩn đoán.
Nốt ung thư da dương vật |
Ung thư tế bào vãy nguyên phát phải loại trừ về mạt chẩn đáon vì nó thường có khuynh hướng xâm lấn và di căn hơn. Chẩn đoán phân biệt bao gồm ung thư phần phụ của da như là eccrine porocarcinoma. ung thư phần phụ của da có khuynh hướng xâm lấn (agressive) trên vi thể và thường dic căn và điều trị triệt để hơn (agressive). Phải phân biệt những biến thể của basaloid xất phát từ qui đầu dương vật có hình táiế bào không điển hình hơn.
Điều trị
Phẫu thuật cắt bỏ. Phẫu thuật vi thể Mohs. Bôi tại chỗ bằng 5-FU cũng thành công hạn chế. Không giống như điều trị ung thư tế bào vãy tường là tiệt căn hơn.
Kết quả
Đối với bướu nhỏ, cắt bỏ hoàn toàn bướu là điều trị tận gốc. Cắt không hết dẫn đến tái phát tại chổ. Tổn thương xâm lấn sâu hay rộng có thể phá huỷ tại chỗ nhưng di căn hiếm
Melanoma
Melanoma là ung thư ít gặp cơ quan sinh dục ngoài. Vị trí bướu nguên phát bao gồm, dương vật, bìu và niệu đạo. Melanoma gặp ít hơn 2% ung thư nguyên phát của dương vật. Bướu của niệu đạo bìu ít gặp. Bệnh nhân có melanoma bộ phận sinh dục thường có tiên lượng rất xấu do biểu hiện lâm sàng.
Sinh lý bệnh
Melanoma có nguồn gốc thượng bì hoặc tế bào hắc tố niêm mạc. trong những trương hợp hiếm kết hợp với nốt rồi hắc tố hầu hết bệnh nhân có giai đoạn di căn xa. Hạch bẹn thường thấy (43-62%).
Biểu hiện lâm sàng và chẩn đoán
Nam tuổi 50-70 thường thấy. Một vài lô nghiên cứu thấy tuổi trong gới hạn 57-77. Ở dương vật thường bướu ở qui đầu (55% trong 1 lô nghiên cứu); tuy nhiên, melanoma được mô tả cả da qui đầu 28% và thân dương vật 9%. Tổn thương khôngđối xứng, với bờ không đều, và sắc tố cũng không đều. Lầm sàng có thể thấy hạch bẹn. Sinh thiết là cần thiết để chẩn đoán xác định. Hình ảnh mô học, gống như melanoma tại những vị trí khác
Chẩn đoán phân biệt
Sinh lý bệnh
Melanoma có nguồn gốc thượng bì hoặc tế bào hắc tố niêm mạc. trong những trương hợp hiếm kết hợp với nốt rồi hắc tố hầu hết bệnh nhân có giai đoạn di căn xa. Hạch bẹn thường thấy (43-62%).
Biểu hiện lâm sàng và chẩn đoán
Nam tuổi 50-70 thường thấy. Một vài lô nghiên cứu thấy tuổi trong gới hạn 57-77. Ở dương vật thường bướu ở qui đầu (55% trong 1 lô nghiên cứu); tuy nhiên, melanoma được mô tả cả da qui đầu 28% và thân dương vật 9%. Tổn thương khôngđối xứng, với bờ không đều, và sắc tố cũng không đều. Lầm sàng có thể thấy hạch bẹn. Sinh thiết là cần thiết để chẩn đoán xác định. Hình ảnh mô học, gống như melanoma tại những vị trí khác
Melanoma ác tính |
Chẩn đoán phân biệt là melanoma in situ, nốt ruồi hắc tố (melanocytic nevi), dầy sừng tiết bả (seborrheic keratosis), lentigines, và melanosis.
Điều trị
Cắt bỏ phẫu thuật là điều trị căn bản cho melanoma của cơ quan sinh dục nam. Cắt dương vật bán phần kèm hay không kèm nạo hạch là điều trị chủ yếu trong bướu niệu đạo dương vật. Cắt tổn thương nếu tổn thương ở bìu. Sinh thiết hạch canh gác.
Kết quả
Khi melanoma ở vị trí khác, tiên lượng liên quan tới độ sâu của bướu và tình trạng hạch vùng. Bởi vì biểu hiện lâm sàng gai đoạn trễ, tiên lượng của bệnh nhân có melanoma là rất kém, không ần bết điều trị. Trong một lô nghiên cứu, 7 trong 9 bệnh nhân ( 2 có hạch di căn ) chết vì ệnh này trong vòng 3 năm có thể hiện lâm sàng. Hầu hết bệnh nhân có giai đoạn lâm sàng trễ, tiên lượng xa phụ thuộc vào co di căn hạch hay không.
Dịch theo emedicine.medscape.com
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét