Thứ Tư, 13 tháng 3, 2013

Chấn thương bàng quang

Chấn thương bàng quang có 2 loại, chấn thương kín và xuyên thấu.[1, 2]  Mức độ tổn thương bàng quang phụ thuộc vào độ căng của bàng quang trong lúc chấn thương. Bàng quang càng căng thì càng co nguy cơ chấn thương hơn bàng quang xẹp. Chẩn đoán chính xác thì có được điều trị nội khoa cũng như phẫu thuật thích hợp, đưa đến kết quả tuyệt vời. Khi tiếp nhận bệnh nhân vấn đề là phải có nghi ngờ, để yêu cầu xét nghiệm chuẩn đoán hình ảnh thích hợp, phẫu thuật khi có chỉ định.[3]

Lịch sử

Bệnh nhân có dấu hiệu và triệu chứng gợi ý của một chấn thương bàng quang có một bệnh sử điển hình cho chấn thương xương chậu, va chạm xe cơ giới, chấn thương giảm tốc độ, hoặc bị tấn công vùng bụng dưới. Nếu bệnh nhân hôn mê, các thành viên trong gia đình hoặc, nhân viên cấp cứu có thể có thể cung cấp bệnh sử.
  • Bàng quang bị chấn thương do tại nạn giao thông có thể xảy ra từ tác động trực tiếp với chiếc xe hay gián tiếp từ tay lái hoặc dây an toàn.
  • Chấn thương giảm tốc, thường gây ra do rơi từ độ cao lớn và hạ cánh trên mặt đất cứng.
  • Tấn công vùng bụng dưới bằng một cú đá mạnh có thể dẫn đến thủng bàng quang.
  • Vết thương bàng quang do xuyên thấu thường là do súng hoặc đâm khu vực trên xương mu.[4]
Vấn đề

Chấn thương kín: Chấn thương do TNGT có 2 loại chấn thương bàng quang xuyên thấu và gãy xương vùng chậu. Khoảng 10% số bệnh nhân bị gãy xương vùng chậu cũng có tổn thương bàng quang đáng kể. Tính chất tổn thương bàng quang có liên quan đến mức độ bàng quang đầy hay không. [5,6,7]

Chấn thương xuyên thấu hay vết thương bàng quang: Do đạn bắn hoặc đâm điển hình chấn thương xuyên thấu. Thường có tổn thương đồng thời cơ quan trọng bụng và / hoặc tổn thương cơ quan vùng chậu. 

Chấn thương do sản khoa: Trong thời gian chuyển dạ kéo dài, áp lực liên tục từ đầu thai nhi đối với xương mu của người mẹ có thể dẫn đến hoại tử bàng quang. Rách trực tiếp bàng quang được báo cáo trong 0,3% của phụ nữ mổ lấy thai. Mổ lấy thai trước đó với dính là một yếu tố nguy cơ. Sẹo cũ có thể gây ra làm rách vô ý của các vết rạch vào bàng quang. Tổn thương bàng quang không được nhận ra ngay có thể dẫn đến dò bàng quang từ cung và các vấn đề khác.

Chấn thương phụ khoa: Chấn thương bàng quang có thể xảy ra trong quá trình cắt bỏ tử cung âm đạo. Bóc tách mù trong mặt phẳng mô giữa bàng quang và cổ tử cung làm tổn thương bàng quang.

Chấn thương tiết niệu: Thủng bàng quang trong quá trình cắt bỏ sinh thiết, bóp sỏi bàng quang, cắt bỏ tuyến tiền liệt qua niệu đạo(TURP), hoặc cắt bướu bàng quang  (TURBT) không phải là hiếm. Tỉ lệ thủng bàng quang không biết cao lên đến 36% sau khi sinh thiết bàng quang.

Chấn thương bàng quang trong phẫu thuật chỉnh hình: Chân và ốc vít chỉnh hình thường có thể thủng bàng quang, đặc biệt là trong thời gian cố định gãy xương chậu. Chấn thương thành bàng quang do nhiệt có thể xảy ra trong quá trình đổ các chất xi măng được sử dụng để tạo khớp háng giả.

Chấn thương bàng quang vô căn: Bệnh nhân được chẩn đoán với chứng nghiện rượu, sau khi uống nhiều nước làm bàng quang căng dễ bị loại chấn thương này. Có tiền căn phẫu thuật bàng quang trước đây là một yếu tố nguy cơ. Trong một báo cáo, tất cả vỡ bàng quang trong phúc mạc. Loại chấn thương này có thể là kết quả của sự kết hợp của căng quá mức bàng quang và chấn thương nhỏ bên ngoài (ví dụ, té ngã đơn giản).

Dịch tễ học

Tần số: Tần suất vỡ bàng quang thay đổi theo các cơ chế sau chấn thương:
  • Chấn thương bên ngoài (82%)
  • Do điều trị (14%)
  • Làm nhiễm độc (2,9%)
  • Tự phát
Xét về tổng thể 60% -85% từ chấn thương kín và 15% -40% là từ một chấn thương xuyên.[8] Các cơ chế phổ biến nhất của chấn thương là tai nạn giao thông (87%), ngã (7%) , và bị đánh (6%). Trong chấn thương do vật nhọn, thủ phạm thường gặp nhất là những vết thương do đạn bắn (85%), tiếp theo là đâm (15%).

Khoảng 10% -25% bệnh nhân bị gãy xương chậu cũng có chấn thương niệu đạo. Ngược lại, 10% -29% bệnh nhân có đứt niệu đạo sau thường kèm vỡ bàng quang.

Chấn thương vỡ bàng quang

Trong chấn thương vỡ, thủng bàng quang ngoài phúc mạc 50% -71%, [9] trong phúc mạc cho 25% -43%, và kết hợp 7% -14% [10]. Tỷ lệ vỡ bàng quang trong phúc mạc là cao hơn đáng kể ở trẻ em vì vị trí chủ yếu trong ổ bụng của bàng quang trước khi đến tuổi dậy thì.

Kết hợp vỡ trong phúc mạc và ngoài phúc mạc chiếm khoảng 10% của tất cả do chấn thương bàng quang xuyên thấu. Tỷ lệ tử vong ở những bệnh nhân này gần 60%, so với -22% 17% tổng thể, phản ánh mức độ nghiêm trọng của chấn thương đồng thời kết hợp với vỡ bàng quang kết hợp.

Kèm tổn thương đường ruột

Chấn thương bàng quang do đạn bắn một, tỷ lệ chấn thương ruột liên quan được báo cáo là 83%. Chấn thương đại tràng 33% bệnh nhân khi bị đâm, và tổn thương mạch máu được báo cáo 82% ở bệnh nhân có chấn thương xuyên thấu (với một tỷ lệ tử vong 63%).

Nguyên nhân

Nguyên nhân chính của chấn thương bàng quang là tổn thương vật sắc nhọn. Nguyên nhân do điều trị như phẫu thuật phụ khoa, tiết niệu, và chỉnh hình gần bàng quang. Nguyên nhân ít phổ biến liên quan đến chấn thương sản khoa. Còn lại chấn thương bàng quang tự phát, không có một bệnh lý rõ ràng.
 
Sinh lý bệnh

Dập bàng quang chấn thương một phần độ dày của niêm mạc bàng quang. Một bộ phận của thành bàng quang thâm tím hoặc dập, dẫn đến chấn thương khu trú và tụ máu. Dập thường xảy ra trong các tình huống lâm sàng sau đây:
  • Bệnh nhân có tiểu máu đại thể sau chấn thương và kết quả chẩn đoán hình ảnh bình thường
  • Bệnh nhân có tiểu máu đại thể sau khi hoạt động thể lực quá mưc (ví dụ, chạy đường dài)
Bàng quang có thể xuất hiện bình thường hoặc hình giọt nước mắt khi chụp x-quang bàng quang. Dập bàng quang là tương đối lành tính, là dạng phổ biến nhất của chấn thương bàng quang trực tiếp, và thường là một chẩn đoán loại trừ. Dập bàng quang là tự hết và không cần điều trị đặc hiệu, ngoại trừ phải nằm nghỉ ngơi tại giường cho đến khi hết tiểu máu. Tiểu máu dai dẳng hoặc đau bụng dưới không giải thích được nên lưu ý.

Vỡ bàng quang ngoài phúc mạc

Vỡ chấn thương vỡ bàng quang thường được kết hợp với gãy xương chậu (89% -100%). Trước kia, cơ chế chấn thương được cho là từ một thủng trực tiếp bởi một mảnh xương hoặc nghành xương chậu đâm vào bàng quang. Nói chung bây giờ đồng ý rằng gãy xương chậu trùng hợp ngẫu nhiên với vỡ bàng quang do chấn thương nổ trực tiếp hoặc lực xé của chấn thương chậu.

Vỡ bàng quang thường kết hợp với gãy xương vòm mu phía trước, và có thể xảy ra từ một rách trực tiếp của bàng quang do các mảnh vỡ xương của xương chậu. Mặt trước bên của bàng quang thường bị. Sự gãy xương chậu mạnh và / hoặc căng dây chằng mu tiền liệt tuyến quá mức cũng làm rách thành của bàng quang. Mức độ chấn thương bàng quang liên quan trực tiếp đến mức độ nghiêm trọng gãy xương.

Một số trường hợp có thể xảy ra bởi một cơ chế tương tự như vỡ bàng quang trong phúc mạc, là một sự kết hợp của chấn thương căng bàng quang quá mức. Phát hiện bởi chụp bàng quang có cản quang cổ điển với hình ảnh thoát chất cản quang quanh đáy của bàng quang, giới hạn không gian quanh bàng quang; có hình giống ngọn lửa được ghi nhận quanh bàng quang. Bàng quang có hình giọt nước từ nén tụ máu vùng chậu, hình ngọn lửa, hình lông chim.

Với một chấn thương phức tạp hơn, chất cản quang kéo dài đến đùi, dương vật, đáy chậu, hoặc vào thành bụng trước. Chất cản quang sẽ lan đến bìu khi cân của hoành niệu sinh dục hoặc cơ hoành niệu sinh dục bị rách.

Nếu fascia kém của cơ hoành niệu sinh dục bị vi phạm, các vật liệu tương phản sẽ đạt đùi và dương vật (trong giới hạn của fascia Colles). Hiếm khi, độ tương phản có thể extravasate vào đùi thông qua lỗ bịt hoặc vào thành bụng trước. Đôi khi, sự tương phản có thể extravasate qua ống bẹn và vào Majora bìu hoặc môi âm hộ.

Vỡ bàng quang trong phúc mạc

Vở bàng quang torng phúc mạc thường vỡ một đường ngang ở vòm bàng quang. Vòm là phần yếu của bàng quang duy nhất được phủ bởi phúc mạc. Muốn vỡ được bàng quang phải căng đầy, khi đó bàng quang mỏng yếu nên đễ vỡ.

Do chấn thương trực tiếp thường có ở người nghiện rượu, ở người ngồi xe hơi đang mang dây an toàn, hay chấn thương trực tiếp từ tay lái. Do vỡ vào trong phúc mạc nên nước tiểu chảy vào xoang bụng. Bụng ngày càng chướng căng, chẩn đoán chậm trể, rối loạn điện giải do tái hấp thụ nước tiểu ( tăng Kali, Natri, Uré và acid hóa), bệnh nhân có thể có vô niệu. 

Thuốc cản quang thoát vào trong phúc mạc xen lẫn giữa các quai ruột non và ở rãnh đại tràng. Vỡ bàng quang trong phúc mạc thường gặpở trẻ em hơn người lớn. Bàng quang xuống vùng chậu hết cỡ vào lúc 20 tuổi.
Cystogram of intraperitoneal bladder rupture. The

Kết hợp chấn thương trong và ngoài phúc mạc

Chất cản quang tràn ngoài cơ quan trong phúc mạc quanh bàng quang. Vết thương xuyên thấu thường do đạn bắn, dao đâm, vật sắc nhọn. Gây vết thương trong hay ngoài phúc mạc, hoặc kết hợp. 

Cystogram of extraperitoneal bladder rupture. Note

Sự kết hợp tổn thương cơ quan khác trong ổ bụng làm tăng chỉ định mổ thám sát. Do đó không cần chụp x-quang bàng quang có cản quang, vì chụp x-quang có thể âm tính giả do vế thương có thể nhỏ. Mỗ thám sát.  

Triệu chứng

Triệu chứng lâm sàng không có gì đặc hiệu, tuy nhiên tam chứng sau đây lúc nào cũng có (tiểu máu đại thể, đau trên xương mu, ấn đau trên xương mu, khó hoặc không thể tiểu được).
  
Hầu hết bệnh nhân than phiền đau trên xương mu hay đau bụng, có thể vẫn còn tiểu được; tuy nhiên khả năng còn tiểu được không loại trừ bệnh nhân không có vỡ bàng quang. Tiểu máu từ ít tới nhiều. Hơn 98% có tiểu máu đại thể, 10% tiểu máu vi thể, 10% không tiểu máu.
 
Khám bụng thấy bụng chướng, bụng có đề kháng, phản ứng dội dương tính. Mất nhu động ruột, và có dấu hiệu kích thích phúc mạc từ đó suy ra có khả năng vỡ bàng quang. Khám trự tràng xem tổ thương trực tràng không và xem vị trí của tiền liệt tuyến. Nếu tiền liệt tuyến bị đẩy lên cao hơn bình thường có khả năng đứt rời niệu đạo.

Trong trường hợp chấn thương do TNGT cả hai cánh chậu bị gãy, di động bất thường giống như mở cuốn sách "open book fracture". Nếu máu có niệu đạo thì thử chụp x-quang ngược chiều xem niệu đạo còn nguyên không trước khi đặt thông niệu đạo.

Chỉ định  

Máu ở miệng niệu đạo là chỉ định tuyệt đối cho chỉ định thông niệu đạo ngược dòng. Khoảng 10-20% bệnh nhân nam có chấn thương niệu đạo sau thường kèm chấn thương bàng quang; vì vậy không nên đặt thông niệu đạo trong những bệnh nhân này. Đặt thông tiểu trong những trường hợp đó có thể biến niệu đạo đang rách một phần thành đứt hoàn toàn. Vì vậy nên mở bàng quang ra da. 

CT scanning. Đây là xét nghiệm cận lâm sàng đầu tiên  trong trường hợp có chấn thương bụng kín. Chụp CT vùng chậu cho phép ta có thông tin các cơ quan trong vùng chậu và thành phần xương của vùng chậu. Là xét nghiệm rất nhạy trong chấn thương bàng quang. Sau khi có thể đặt được thông tiểu bơm cấht cản quang pha õoãng vào bàng quang và tiến hành chụp CT scan. 

Cystography. Tiêu chuẩn để chẩn đoán vở bàng quang là thông quang chụp bàng quang có bơm chất cản quang. Thường nên chụp dưới C-arm nhưng thực tế lâm sàng không cho phép điều đó. Chụp hình tĩnh cũng chấp nhận được. Ngay cả khi thực hiện tại giường với dụng cụ cầm tay.

Hầu hết bệnh nhân chấn thương bàng quang là đa chấn thương, và cần chụp CT scan vùng bụng và chậu . Vì vậy trong lúc chụp CT scan có thể chụp cystography luôn.[11]

Chụp x-quang bàng quang đúng là phải chụp KUB trước sau đó chụp phím trước sau và nghiêng của bàng quang có bơm chất cản quang, và sau đó chụp phim trước -sau sau khi bênh nhân đi tiểu hết nước tiểu.
  • Chụp một phim thẳng
  • Đặt thông tiểu vào bàng quang
  • Sử dụng chất cản quang pha loãng, bơm nhẹ nhàng vào bàng quang ( khoảng 75 cm trên xương chậu0 tới một thể tích 300-400 mL. ( pha cản quang với tỷ lệ 50% cản quang với 50% nước muối sinh lý).
  • Sau khi bơm 100 mL cản quang đầu tiến nên chụp một phim trước sau.
  • Nếu thấy thuốc tràn ra ngoài nhiều thì ngưng bơm nữa, còn nếu chưa thấy thuốc tràn ra ngoàithì tiếp tục bơm hết phần còn lại chất cản quang.
  • Sau khi bệnh nhân đi tiểu hết chất cản quang, thì chụp lại một phim KUB vì rất quang trọng, nó có thể đánh giá sự trào chất cản quang đâu đó mà khi bàng quang đầy không phát hiện được.
  • Nếu có thể chụp luôn 1 phim nghiêng của  bàng quang.
  • Ở trẻ em thể tích của bàng quang được tính theo công thức. Dung tích bàng quang = 60 mL + ( 30 mL x tuổi tính bằng năm)
Kỹ thuật chụp đúng nên được quan tâm đúng mức, vì kỹ thuật chụp sai thì thương tổn bị bỏ sót. Kỹ thuật chụp nghiêng khó khăn trong những trường hợp chấn thương vỡ xương chậu, trong vài trương hợp không thể phát hiện. Thể tích bơm vào nhiều khi không quang trọng bằng áp lực bơm vào phải đủ để có thể thể hiện những tổn thương trong bàng quang. Những vết thương sướt nhẹ bàng quang có thể tự lành được.bơm chất cản quang sao cho căng đầy thì hạn chế được tỷ lệ âm tính giả, độ chính xác tới 85-100%.
   
Nếu bệnh nhân được chỉ định mổ thám sát ngay có thể thám sát bàng quang, còn nếu chậm trễ hơn có thể chọc dò bàng quang trên xương mu để bơm chất cản quang tránh bỏ sót tổn thương trong bàng quang[12]
Chụp bàng quang tĩnh có hiệu quả hơn UIV vì UIV không thể làm căng bàng quang đủ, kém cản quang.
Giải phẫu liên quan

Bàng quang của người lớn nằm trong vùng chậu trước và được bao bọc bằng lớp mỡ ngoài phúc mạc và mô liên kết. Bàng quang có giới hạn với xương mu bằng một khoang gọi là khoang Retzius. Vòm của bàng quang được phủ bởi phúc mạc, và cổ bàng quang được cố định với những cấu trục xung quanh bằng sự quật ngược của cấu trúc cân trong vùng chậu và bằng những những dây chằng thật sự của vùng chậu.

Ở nam giới, cổ bàng quang liên tục với với tiền liệt tuyến, mà dính với dây chằng mu tiền liệt tuyến. Ở nữ giới, dây chằng mu niệu đạo nâng đỡ cổ bàng quang và niệu đạo.      

Thân của bàng quang nhận nâng đỡ từ hoành niệu dục phía dưới, và 2 bên bởi cơ bịt trong. 

Cân phía trên của hoành niệu dục la liên tục với vùng cậu, bịt và cân nội chậu. Cân dưới của hoành niệu dục dính với cân Colles. Nó liên tục như là cân Scarpa phía trước, cân và cơ Dartos trong bìu, và cân căng mạc đùi của đùi. Kiểu vở  ( trong hay ngoài phúc mạc) phụ thuộc vào vị trí vết rách bàng quang và phần phủ phúc mạc của bàng quang. 
  • Nếu vết rách này phần phía phúc mạc phủ lên bàng quang thì gọi là vỡ bàng quang trong phúc mạc
  • Nếu rách dưới phúc mạc phủ lên bàng quang gọi là vỡ bàng quang ngoài phúc mạc.
Nếu vỡ trước-trên, nước tiểu có thể trong phúc mạc, ngoài phúc mạc ( khoang Retzius), hoặc cả hai. Nếu rách sau trên, nước tiểu sẽ lan trong hoặc sau phúc mạc. Nếu bàng quang vỡ mà hoành niệu dục trên còn nguyên ngăn cản sự thoát dịch khỏi vùng chậu, và khi cân hoành niệu dục dưới còn nguyên ngăn cản lan xuống tầng sinh môn.
  
Chống chỉ định 

Chấn thương niệu đạo sau à chống chỉ định đặc hiệu cho việc đặt thông tiểu Foley qua niệu đạo. Nghi ngờ chấn thương niệu đạo sau khi thấy máu ở miệng niệu đạo, trong tất cả có chấn thu7ong xương chậu, hay khi khám trực tràng thấy tiền liệt tuyến bị đẩy lên cao.

Khi có chấn thương niệu đạo sau, tiến ành chụp x-quang niệu đạo bàng quang ngược dòng trước khi tiến hành đặt thông tiểu Foley. Tiến hành chụp x-quang niệu đạo bàng quang ngược chiều như sau:
  • Kéo dương vật và giữ dương vật một góc tù so với xương chậu
  • Đưa thông Foley 16 Fr nhẹ nhàng vào niệu đạo xa và bơm bong bóng khoảng 3 mL, sao cho bóng bóng nằm trong hố thuyền. Hoặc nếu có thể sử dụng kẹp Brodney cho phép kẹp vị trí miệng niệu đạo.
  • Bơm chất cản quang vào sử dụng bơm tiêm 60 mL
  • Sau đó chụp x-quang niệu đạo bàng quang, chụp nghiên để có thể thấy tổn thương niệu đạo được rõ ràng. 
Cách chụp khác, lấy đầu ống bơm 60 mL có thể bơm trực tiếp vào niệu đạo, chất cản quang sẽ bơm trực tiếp vào niệu đạo, lúc đó nười thực hiện sẽ mang gant tay chì

Sau khi loại từ chấn thương niệu đạo sau, nên tiến hành chụp x-quang bàng quang để truy tìm tổn thương bàng quang. Nếu có tổn thương niệu đạo thì tiến hành mở bàng quang ra da, tiến hành là thằng niệu đạo lại khi bệnh nhân ổn định.  

Điều trị nội khoa

Hầu hết vỡ bàng quang ngoài phúc mạc có thể điều trị bằng cách đặt thông tiểu đơn giản hay mở bàng quang ra da.[13] Lưu thông tiểu trong vòng 7-10 ngày sau đó chụp bàng quang có cản quang. Khoảng 85% vết thương sẽ tự lành sau đó rút thông tiểu tiểu thử.[14,15]

Vỡ bàng quang ngoài phúc mạc sẽ lành trong 3 tuần. Nếu bệnh nhân phải mỗ cấp cứu vì lý do khác thì cũng có thể mỗ khâu lại bàng quang nếu bệnh nhân ổn định.

Điều trị ngoại khoa

Vỡ bàng quang trong phúc mạc

Phần lớn vỡ bàng quang trong phúc mạc cần pẫu thuật thám sát. [16,17] Những tổn thuơng này không lành khi đặt thông tiểu kéo dài. nước tiểu sẽ dò kéo dài trong ổ bụng, gây dịch báng là nước tiểu trong ổ bụng và bụng căng trướng, rối loạn điện giải.

Phải phẫu thuật trong trường hợp là vết thương do hỏa khí. Bởi vì thường có tổn thương phối hợp trong chấn thương do hỏa khí.

Vết thương do dao đâm vùng tên xương mu, xử trí phẫu thật cũng tùy. Phẫu thuật khâu lại nếu vết thương trong phúc mạc. Còn nếu vết thương ngoài phúc mạc có thể  điều trị bằng cách đặt thông tiểu.

Thoát nước tiểu ngoài phúc mạc phải giải quyết bằng phẫu thuật. Mỗ sớm giảm thời gian nằm viện và tránh được những biến chứng, trong khi có thể thúc đẩy quá trình lành bệnh sớm.

Tiền phẫu

Làm theo hướng dẫn căn bản về chấn thương (the basic trauma protocol (advanced trauma life support [ATLS]), làm ổn định bệnh nhân. Cho kháng sinh phổ rộng, hướng dẫn bệnh nhân ký cam đoan phẫu thuật.

Trong lúc phẫu thuật

Đặt bệnh nhân trong tư thế nằm ngữa
Rạch da giữa bụng
Thám sát nội tạng vùng chậu, niệu quản đại tràng và mạch máu.  
Chú ý xem vùng chậu có máu tụ không, nếu có thì cứ để yên vậy.
Xẻ đôi bàng quang ra, xem trong lòng bàng quang. Xem có vật lạ trong bàng quang thì lấy bỏ đi
Xác định 2 lỗ niệu quản, bảo đảm rằng chúng không bị tổn thương
Một khi tổn thương bàng quang được xác định, cắt bỏ những mô hoại tử
Khi bàng quang tổn thương do hoả khí thì tổn thương thường rất nặng nề. 
Khâu bàng quang kín nước sử dụng 3 lớp  với chỉ tan. Phải cố găng khâu bảo vệ bàng quang trước những tổn thương của bàng quang do những mảnh xương vỡ chọc vào. Thường khi gặp những trường hợp như vậy nên lấy mạc nối lớn chèn vào giữa xương chậu và bàng quang .

Kiểm tra sự toàn vẹn của bàng quang bằng nước muối sinh lý
Mở bàng quang ra da bằng thông lớn
Dẫn lưu trước bàng quang
Đóng bụng từng lớp và khâu da

Sau mổ

Kháng sinh tĩnh mạch cho tới khi bệnh nhân được xuất viện. Rút dẫn lưu khi dịch ra giảm dần thường trong 48 - 72 giờ. Để thông mở bàng quang ra da, sau khi chụp x-quang bàng quang có cản quang

Cho bệnh nhân xuất viện khi bệnh nhân ăn uống bình thường, không còn sốt nữa, không còn đau nữa.

Theo dõi

Hướng dẫn bệnh nhân cắt chỉ sau 7 ngày, khám lại vết thương. Chụp x-quang bàng quang có cản quang sau 10-14 ngày sau mỗ. Nếu x-quang bình thường thì rút thông niệu đạo. Cho bệnh nhân thử đi tiểu nếu đi tiểu bình thường thì rút thông mở bàng quang ra da.  Hướng dẫn bệnh nhân có thể hoạt động bình thường trở lại trong vòng 4-6 tuần sau phẫu thuật.


Biến chứng

Biến chứng quan trọng của phẫu thuật bàng quang
  • Thoát nước tiểu
  • Dính vết mỗ
  • Chảy máu
  • Nhiễm trùng vùng chậu
  • Dung tích bàng quang nhỏ
  • Tiểu không kiểm soát xuất hiện
Những biến chứng khác
  • Mặc dù đóng bàng quang kỹ càng nhưng nước tiểu vẫn thoát ra ngoài, có thể điều trị bằng đặt thông tiểu kéo dài.
  • Hở vết thương
  • Tổn thương máu cục vùng chậu trong trường hợp chảy máu nhêều
  • Hoặc máu cục trong vùng chậu thành áp-xe
  • Phẫu thuật thô bạo vùng chậu của bàng quang có thể làm cho bàng quang nhỏ, làm àng quang dêễ co thắt và làm cho tiểu không kiểm soát, theo thời gian bàng quang dần dần lớn lên đạt tới thể tích sinh lý.
Kết quả và tiên lượng

Vỡ bàng quang do chấn thương, có khi rất nguy hiểm cho tính mạng, có khi dễ dàng kiểm soát thành công. Đánh giá đúng mức và điều trị thích hợp là chủ yếu cho kết quả tối ưu.

Tiểu máu là dấu hiêu gợi ý của chấn thương bàng quang . Bác sĩ khi khám bệnh nhân chấn thương nên chú ý có nghi ngờ chấn thương hệ thống tiết niệu, đặc biệt bàng quang và niệu đạo.

Hầu hết chấn thương vỡ bàng quang ngoài phúc mạc thường kèm chấn thương vỡ xương chậu. Hầu hết vỡ bàng quang dưới phúc mạc có thể điều trị bảo tồn bằng cách đặt thông tiểu đơn giản; tuy nhiên, tất cả vỡ bàng quang trong phúc mạc, hay vết thương xuyên thấu nên điều trị với phẫu thuật thám sát  

Bàn cãi

Điều trị thích hợp cho thủng bàng quang nhỏ trong phúc mạc do dụng cụ nội soi vẫn còn đang bàn cãi. Hầu hết các tác giả khuyên nên mở bụng thám sát để khâu lại tổn thương.  Còn có ý kiến khác có thể điều trị bảo tồn bằng cách đặt thông tiểu cho bàng quang nghỉ ngơ kéo dài. Hiện tại không có bằng chứng ủng hộ việc điều trị bảo tồn.  

Dịch theo Medscape Urology
--------------------------------------------------------------------
  1. Sagalowsky AI, Peters PC. Genitourinary trauma. In: Walsh PC, et al, eds. Campbell's Urology. 7th ed. Philadelphia, Pa: WBS; 1998:3104-8.
  2. Srinivasa RN, Akbar SA, Jafri SZ, Howells GA. Genitourinary trauma: a pictorial essay. Emerg Radiol. Jan 2009;16(1):21-33.
  3. Husmann DA. Diagnostic techniques in suspected bladder injury. In: McAninch JW, ed. Traumatic and Reconstructive Urology. 1996:261-7.
  4. Melo EL, de Menezes MR, Cerri GG. Abdominal gunshot wounds: multi-detector-row CT findings compared with laparotomy-a prospective study. Emerg Radiol. Dec 2 2011
  5. Carroll PR, McAninch JW. Major bladder trauma: mechanisms of injury and a unified method of diagnosis and repair. J Urol. Aug 1984;132(2):254-7.
  6. Corriere JN Jr, Sandler CM. Bladder rupture from external trauma: diagnosis and management. World J Urol. Apr 1999;17(2):84-9.
  7. Sandler CM, Hall JT, Rodriguez MB. Bladder injury in blunt pelvic trauma. Radiology. Mar 1986;158(3):633-8.
  8. Cass AS, Luxenberg M. Features of 164 bladder ruptures [see comments]. J Urol. Oct 1987;138(4):743-5.
  9. Corriere JN. Extraperitoneal bladder rupture. In: McAninch JW, ed. Traumatic and Reconstructive Urology. 1996:269-73.
  10. Brown SL, Persky L, Resnick MI. Intraperitoneal and Extraperitoneal. Atlas of Urol Clin of N Amer. 1998;6:59-70.
  11. Horstman WG, McClennan BL, Heiken JP. Comparison of computed tomography and conventional cystography for detection of traumatic bladder rupture. Urol Radiol. 1991;12(4):188-93.
  12. Volpe MA, Pachter EM, Scalea TM. Is there a difference in outcome when treating traumatic intraperitoneal bladder rupture with or without a suprapubic tube?. J Urol. Apr 1999;161(4):1103-5.
  13. Kotkin L, Koch MO. Morbidity associated with nonoperative management of extraperitoneal bladder injuries. J Trauma. Jun 1995;38(6):895-8. 
  14. Corriere JN Jr, Sandler CM. Management of the ruptured bladder: seven years of experience with 111 cases. J Trauma. Sep 1986;26(9):830-3.
  15. Cass AS, Luxenberg M. Management of extraperitoneal ruptures of bladder caused by external trauma. Urology. Mar 1989;33(3):179-83.
  16. Kim FJ. Laparoscopic management of intraperitoneal bladder rupture secondary to blunt abdominal trauma using intracorporeal single layer suturing technique. Int Braz J Urol. September-October 2008;34(5):650.
  17. Al-Aghbari S, Al-Harthy A, Ahmed M, Al-Reesi A, Al-Wahaibi K, Al-Qadhi H. Laparoscopic repair of traumatic intraperitoneal bladder rupture. Sultan Qaboos Univ Med J. Nov 2011;11(4):515-8.

    Không có nhận xét nào: