Thứ Sáu, 7 tháng 12, 2012

Cabozantinib kéo dài thời gian sống còn không tiến triễn (PFS) ở bệnh nhân ung thư tiền liệt tuyến kháng cắt tinh hoàn

Một nghiên cứu mới kết qảu chưa có tiền lệ trong điều trị ung thư tiền liệt tuyến kháng trị với cắt tinh hoàn (CRPC) với một thuốc mới là cabozantinib (Cometriq, Exelixis). Kết qủa đã được đăng online ngày19 tháng 11 trong tạp chí Journal of Clinical Oncology.

Cabozantinib là chất ức chế receptor tyrosine kinase bằng đường uống, gồm có RET, MET, và yế tố 2 tăng trưởng nội mạc mạch máu ( vascular endothelial growth factor 2 - VEGFR2).  Gần đây được FDA thông qua để điều trị ung thư tuyến giáp tuỷ

Cabozantinib được mô tả như là có tác dụng nhanh và mạnh những tổn thương xương trên xạ hình, tác giả nghiên cứu nói. Những tác động này phản ảnh lên những phương pháp đo về hoạt động chống ung thư”
Những bệnh nhân được nghiên cứu ngẫu nhiên với cabozantinib, 72% có hồi phục nhưng tổn thương mô mềm, và 68% hồi phục về xương. Thêm vào đó, có phục hồi hoàn toàn trong 12%

Tuy nhiên, David C. Smith tác giả nghiên cứu, MD, giáo sư nội khoa và tiết niệu tại trường ĐH Michigan Medical School ở Ann Arbor, nói rằng nghiên cứu chưa nên thay đổi thực hành lầm sàng hiện tại. "Cabozantinib không nên sử dụng trong CRPC cho những bệnh nhân ngoài nghiên cứu này tại thời điểm này, nhưng số liệu này nên hướng dẫn cho thữ nghiệm lâm sàng pha 3 như trong những bài báo, cũng như trong những thử nghiệm lâm sàng trong trang web ClinicalTrial.gov”

"Liều lượng cũng còn đang được đanh giá và tác dụng ngoại ý cũng đang được theo dõi để giới hạn những độc tính”," Dr. Smith nói với Medscape Medical News. " Tôi cũng không khuyên nên dùng trong thời điểm này."

Những bằng chứng đang gia tăng

Cabozantinib có tác dụng chống ung thư trong 12 trong 13 kiểu bướu, như trong báo báo năm ngoái của hội nghị hằng năm chống ung thư Hoa kỳ ( American Society of Clinical Oncology ).
Đặc biệt tỷ lệ cao ung thư được kiểm soát như là tiền liệt tuyến, buồng trứng, ung thư gan. Điều trị với tác nhân này cũng có một phần hay từng phần loại bỏ di căn xương trong nhưng bệnh nhân có ung thư vú , tiền liệt tuyến và melanoma.

Cải thiện thời gian sống còn không tiến triễn bệnh

Nghiên cứu bởi bác sĩ Smith và cộng sự 171 đàn ông CRPC. Tất cả bệnh nhân ban đầu đều nhận cabozantinib 100 mg hàng ngày. Những người này có bệnh ổ định trong 12 tuần, theo tiêu chuẩn đánh giá đáp ứng của những bướu đặc (Response Evaluation Criteria in Solid Tumors-RECIST), được phân ngẫu nhiên cabozantinib hoặc placebo. Tuy nhiên, sự ngẫu nhiên phải dừng sớm vì quan sát thấy có những tác dụng của cabozantinib.

Phần lớn bệnh nhân (87%) có di căn xương và 46% có hoá trị trước đó (94% với điều trị docetaxel). Thêm vào đó, 39% bệnh nhân có điều trị trước đó hay đang điều trị bisphosphonate.

Trong 12 tuần đầu, 127 bệnh nhân (75%) bệnh ổn định và 18 (11%) có bệnh tiến triễn. Có 4 bệnh nhân có bệnh ổn định và đã xác nhận có đáp ứng một phần.

Có 154 bệnh nhân được đánh giá có sự thay đổi tốt nhất vì bệnh có thể đo lường được, và 111 (72%) có đánh giá ít nhất 1 lần cho thấy có tiến triễn về giảm mô mềm (mô ung thư). Những thay đổi có thể đo lường được này độc lập với những điều trị trước đó.

Mục tiêu nghiên cứu là tỷ lệ sống còn không tiến triễn trong những bệnh nhân có bệnh ổ định tuần thứ 12. Trước khi sự ngẫu nhiên bị ngưng, 14 bệnh nhân chia nhóm ngẫu nhiên cabozantinib và 17 uống placebo. Có sự tăng đáng kể tỷ lệ sống còn không tiến triễn trong nhóm cabozantinib, so sánh với placebo (23.9 vs. 5.9 weeks; hazard ratio, 0.12; P < .001). 

Thời gian sống còn không tiến triễn trung bình toàn bộ (Median overall progression-free survival ) cho toàn bộ tiến trình điều trị là 29.4 tuần trong nhóm điều trị với cabozantinib, 29.7 tuần trong nhóm docetaxel-naïve (n = 97), và 23.9 tuần trong nhóm điều trị trước đây docetaxel (n = 74).

Đau giảm và cải thiện marker ung thư

Tác giả cũng thực hiện phân tích trên những yếu tố như là xạ hình xương, yếu tố đánh dâu xương, đau, và sử dụng giảm đau. Cải thiện xạ hình xương thấy được 67% bệnh nhân đánh giá, giảm sử dụng thuốc giảm đau trong 56% bệnh nhân.

Tất cả bệnh nhân có ít nhất 1 tác dụng phụ, và phần lớn thì có hơn 1. Tác dụng phụ là mệt mỏi, giảm độ thèm ăn, khẩu vị thay đổi, buồn nôn, tiêu chảy, sụt cân, hộci chứng bàn tay chân, tất cả những điều này đều cải thiện khi có giảm liều trong 62%. Tác dụng ngoại ý grade 3 thường gặp nhất là mệt mỏi (16%), cao huyết áp (12%), hội chứng bàn tay bàn chân (8%). Tác dụng ngoại ý trầm trọng là thuyên tắc phổi (6%), mất nước (5%), nôn ói (5%).

Dịch theo nguồn http://www.medscape.com/viewarticle/775768

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét