Thứ Tư, 14 tháng 11, 2012

Xuất tinh máu

Xuất tinh máu là tình trạng có máu trong tinh dịch, điều này gây lo lắng rất nhiều cho đàn ông. Trong hầu hết bệnh nhân xuất tinh máu không cần làm thêm xét nghiệm gì đặc biệt, tuy nhiên trong vài trường hợp nó là dấu chỉ đầu tiên của bệnh niệu khoa khác.



Từ xưa Hippocrates, Galen, Pare, Morgagni, và Fournier cũng đã nói về bệnh này. Những báo cáo của người Hoa kỳ xuất hiện trong năm 1894 và Fletcher, Leary, Marshall và Ganabathi cũng lần lượt xuất bản những báo cáo xuất sắc về chủ đề này. Với sự ra đời phương pháp chẩn đoán hình ảnh mới đã làm thay đổi chẩn đoán và điều trị bệnh này  

Bệnh sử

Hỏi bệnh sử tốt chú ý tập trung vào chấn thương, nhiễm trùng, rối loạn đông máu
Hầu hết bệnh nhân thường trẻ dưới 40 tuổi c1o triệu chứng từ 1-24 tháng
Hầu hết bệnh nhân có nhiều hơn 1 lần bị xuất tinh máu trong vài tuần đến vài tháng.

Chẩn đoán phân biệt

  • Chấn thương vùng bụng.
  • Lao niệu sinh dục

Làm các xét nghiệm

Tổng phân tích nước tiểu và cấy nước tiểu
  • Phát hiện bệnh nhiễm trùng tiếu có thể kết hợp, tuy nhiên tỷ lê dương tính thấp 6-29%
  • Nếu bệnh nhân có tiếp xúc với bệnh lao thì tìm vi trùng lao trong nước tiểu, chiếm 13 % trong vài nghiên cứu
  • Ở bệnh nhân trẻ, thì viêm niệu đạo có thể là nguyên nhân, và nên xét nghiệm dịch niệu đạo
  • Nếu có máu trong nước tiểu thì phải đánh giá toàn diện đường tiết niệu bằng CTscan, soi bàng quang
Phân tích và cấy tinh dịch
  • Vai trò chưa rõ. Trong khi vài tác giả cho răng thường di nhiễm từ dịch niệu đạo
  • Phân tích dịch niệu đạo giúp phân biệt nguyên nhân làm đổi màu tinh dịch
  • Smith và cộng sự báo cáo 2 trường hợp tinh dịch đen do ung thư hắc tố
Xét nghiệm máu
  • PSA khi bệnh nhân trên 50 tuổi, người Mỹ gốc Phi, hay người đàn ông trên 40 tuổi có gia đình bị ung thư tiền liệt tuyến. 
  • Xét nghiệm đông máu ở mọ lứa tuổi khi xuất tinh máu kéo dài trên 2 tháng 

Chẩn đoán hình ảnh học

  • Siêu âm qua ngã trực tràng cho hình ảnh rõ nét túi tinh ống phóng tinh, tiền liệt tuyến
Gần đây có 2 nghiên cứu lớn, đánh giá vai trò của siêu âm qua ngà trực tràng ở bệnh nhân có xuất tinh máu mạn tính. trong một nghiên cứu của Etherington và cộng sự đã tìm thấy sỏi trong tiền liệt tuyến, những bất thường của túi tinh bao gồm sỏi, dãn túi tinh, nang và bất đối xứng túi tinh. 
Gần đây, Worischeck và Parra đã đánh giá 26 bệnh nhân với xuất tinh máu bằng siêu âm qua trực tràng. Họ thấy có bất thường trong 92 % các trương hợp, bao gồm dãn túi tinh (30%), nang ống phóng tinh (15%), sỏi ống phóng tinh (15%), sỏi túi tinh (15%), và di tích của ống müllerian (7%), khống có ung thư trong lô của họ. Không biết được tuổi trung bình trong 2 nghiên cứu trên
  • MRI 
    • Cũng thấy bất thường như nang hoặc dãn.
    • Trong thì T2, thì thấy rõ túi tinh và cấu trúc xung quanh
    • MRI cũng có thấy những bất thường cấu trúc giải phẫu sau điều trị nội tiết, xạ trị, hay viêm, loại sản. Tuy nhiên các ưu điểm nhất của MRI so với siêu âm là với MRI có thể phát hiện xuất huyết bên trọng túi tinh hoặc tiền liệt tuyến. 
    • MRI nội trực tràng rất nhạy.    
  • CT scan: có thể đánh giá hình dạng túi tinh, nhưng không có báo cáo
  • Soi niệu đạo bàng quang, xác định xem có nguyên nhân từ niệu đạo và tiền liệt tuyến không. Có thể xác định điểm chảy máu. Tuy nhiên ở bệnh nhân có tiểu máu phối hợp thì nên soi để đánh giá bàng quang

Điều trị

Mục tiêu chính của điều trị là làm giảm lo lắng cho bệnh nhân vốn đang sợ sệt. Ba yếu tố nên đánh giá là (1) tuổi của bệnh nhân (2) thời gian bao lâu và tai phát mấy lần (3) có hiện diện của tiểu ra máu kết hợp. Hầu hết nếu có nguyên nhân ung thư thường ở bệnh nhân lớn hơn 40 tuổi. Nếu kéo dài thì nên cố găng tìm nguyên nhân. 

Ở bệnh nhân trẻ, chỉ cần thăm trực tràng bằng ngón tay.  Ở bệnh nhân lớn tuổi thì làm thêm PSA. Nếu kèm tiểu máu thì nên đánh giá đường tiểu trên và dưới.

Nhiễm trùng niệu thì cần kháng sinh thích hợp, hầu hết là vi trùng E coli. Ở bệnh nhân trẻ nên kết hợp điều trị chlamydiae. Fluoroquinolone có thể điều trị cả 2 loại vi trùng này. Nếu dị ứng với Fluoroquinoloe thì kết hợp trimethoprim/sulfamethoxazole và doxycycline. Hai tuần thường là đủ. nếu có viêm thì kết hợp ibuprofen hay NSAIDS khác.  

Những mạch máu ở niệu đạo hay tiền liệt tuyến có thể đốt, nếu mà do những nang lớn thì có thể hút. Không có bằng chứng tiêm chất gây xơ vào nang có thể hết bệnh.  

Nếu có rối loạn đông máu thì điều trị huyết học thích hợp.
Nếu có bế tắc ngõ ra thì kế hợp thuốc ức chế 5-alpha reductase
không có bằng chứng sử dụng estrogen hay corticotrophins như trong qua khứ đã sử dụng.

Không có nhận xét nào: